Tác Giả: Liên Thành
(Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
(Cựu Ty Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên-Huế)
Kể từ 30/4/1975 đến nay, trong tâm khảm của tất cả nguời Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: “ Tại sao Miền Nam lại thua?” “Tại sao cái đúng lại thua cái sai, tại sao cái ác lại thắng cái thiện?”. Câu hỏi này, không những đối với nguời Việt ở miền nam, mà còn là câu hỏi cho cả thế hệ thanh niên lớn lên sau chiến tranh trong cả nuớc. Và mãi mãi sẽ là câu hỏi đau thương cho lịch sử Việt muôn đời sau. Và ngay cả với người Hoa Kỳ và sử sách Hoa Kỳ.
Các chính trị gia, thuộc phía chấp nhận chiến tranh, luôn lấy cuộc chiến VN, cùng những di hại khủng khiếp của chế độ CS, như là một bài học đau thương, để nhắc nhỡ lương tâm Hoa Kỳ, và kêu gọi sự kiên nhẫn của nguời Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, mà sẽ hứa hẹn tiếp diến rất lâu dài. Ngược lại, phía phản chiến, hay đúng ra là những kẻ chủ bại, dùng VN như một ví dụ để biện hộ cho quan điểm nguời Mỹ nên bỏ mặc các quốc gia mà họ đang cùng tham chiến chống khủng bố, vì cuối cùng là sẽ sa lầy như VN, sẽ thất bại như VN v.v… Vấn đề chiến tranh ý thức hệ tại VN đã và đang được nhìn lại.
Ngoài một số nhà nghiên cứu VN, những sử gia trẻ tuổi Mỹ, với đầy đủ tài liệu đã đuợc giải mật, nghiên cứu công phu tỉ mĩ, lý luận sắc bén, dẫn chứng cụ thể, họ đã và đang đặt lại vấn đề, một cách hết sức nghiêm túc, sâu sắc, và khoa học. Kết quả là gì? Một kết luận thật đau đớn: Chúng ta, Việt Nam Cộng Hòa, và Hoa Kỳ lẽ ra đã thắng cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng Sản tại VN !
Điều gì đã khiến Lý Tuởng Tự Do Nhân Bản đã thua ý thức hệ Cộng Sản vô nhân tại miền Nam khi mà toàn thể dân chúng đều khiếp hãi chế độ Cộng Sản? Thật quá dễ để nhận thấy điều này. Qua các trận chiến với Cộng Sản, dân chúng đều bỏ chạy về phía quốc gia… Và một điều rất rõ và rất nực cuời, là khi thực hiện cuôc xâm lăng miền nam, HCM và Đảng CSHN đã dấu không dám nhận là Đảng Cộng Sản, mà phải sử dụng một cái tên giả là đảng Lao Động! Tại sao như vậy? Tại vì họ biết rất rõ dân chúng miền nam không bao giờ chấp nhận chế độ Cộng Sản. Và xin đuợc trở lại câu hỏi cay đắng của lịch sử: “Tại sao chúng ta lại thua?”
Thường thì câu trả lời là : “vì nguời bạn Mỹ đã đột ngột bỏ rơi chúng ta!” Câu trả lời này đúng, nhưng chưa đủ. Sự kiện quốc hội Hoa Kỳ đã tàn nhẫn và thằng thừng không viện trợ cho chúng ta, dù chỉ một xu, vào tháng 4/1975, trong lúc đó, Cộng Sản Hà Nội đuợc liên tục nuôi duỡng bởi một con số khổng lồ về tiền bạc và vũ khí, từ Cộng Sản Đông Âu, Cộng Sản Nga, và đặc biệt là Cộng Sản Trung Hoa, thì rõ ràng đó là nguyên nhân chính và trực tiếp dẫn đến thảm họa. Nhưng, nếu chúng ta chỉ biết đổ thừa và chỉ ngón tay vào ngừoi Mỹ, thì thử hỏi chúng ta có công bình với họ không? Khi mà số tiền viện trợ cho miền nam để chống cộng sản trong vòng 20 năm, từ 1955 đến 1975 không phải là nhỏ! Và hơn hết tất cả, đó là 58 ngàn thanh niên ưu tú của nuớc Mỹ đã bỏ mình vì đất nước của chúng ta.Tên tuổi của họ đã đuợc trang trọng khắc vào bức tuờng đá đen u buồn tại thủ đô Washington DC. Bất cứ ai có trái tim nhân nghĩa, đi qua đó không khỏi rưng rưng nước mắt, kính trọng xen lẫn xót xa. Thưa quý vị, hãy thử đặt mình vào vị trí của một người dân Mỹ bình thường, bạn sẽ cảm nhận gì khi đi qua nơi đó?
Ngạn ngữ phương tây có câu: “Phải có hai người mới nhảy đuợc bản Tango” Việt Nam ta có câu: “Có lữa mới có khói!” Đúng! Nếu không có những kẽ mà chúng ta liệt kê là thành phần thứ ba, Cộng Sản nằm vùng, bọn phản chiến (nhưng chỉ một chiều đối với sự kiện buộc phải chiến đấu để tự vệ của VNCH,) bọn thân cộng, bọn mà miền nam đã vô tình, lầm lạc nuôi ong tay áo, thì làm sao có những biến động chính trị liên tục cho miền nam? Để tạo cớ cho Cộng Sản quốc tế và báo chí thân cộng phuơng tây kết tội chính phủ VNCH không có chính nghĩa? Không được ngừoi dân ủng hộ? Kết liễu sinh mạng chính quyền VNCH cũng chính là tự kết liễu nền tự do dân chủ mà ngừoi dân miền nam đã khổ công gầy dựng. Hình ảnh lên đuờng xuống đuờng chống đối chính phủ đàn áp Phật Giáo, độc tài, gia đình trị, hình ảnh tự thiêu của các vị tu sĩ, (dù là sự tự thiêu đã đựoc xếp đặt truớc, với cả hàng chục ngừoi nằm lăn ra đuờng, cản xe CS đang tìm cách cứu sinh mạng một con nguời, điều mà bất kỳ một chính phủ dân chủ nào cũng phải làm) đã đuợc Cộng Sản, qua bàn tay của nhóm báo chí Cộng Sản, khuynh tả, khai thác tận tình, truyền đi khắp thế giới. Ngay cả sau khi vị Tổng Thống bị cho là độc tài đàn áp Phật Giáo và hai bào đệ của ông đã bị giết rồi, thì đâu đó vẫn cứ tiếp tục những luận điệu chỉ trích nền đệ nhị Cộng Hòa tiếp theo sau đó: “ Một chế độ Diệm mà không Diệm!”.
Rõ ràng đã không còn bóng dáng TT Diệm cũng như hai bào đệ của ông, mà họ vẫn tiếp tục tuyên truyền và suy nghĩ như thế, thế thì có công bằng không? Thế thì, phải điều hành quốc gia như thế nào mới vừa lòng họ? Tất cả những điều tiếng bất hợp lý, bất công kể trên, đã tạo cớ đễ bọn Cộng Sản quốc tế, bọn Cộng Sản phuơng tây, bọn phản chiến một chiều phương tây, bọn ghét Mỹ phương tây, và bọn Cộng Sản trá hình tại Mỹ, bọn giáo sư khuynh tả, chính trị gia khuynh tả, nói chung là một nhóm nhỏ bất luơng khuynh tả, mà chắc chắn có sự mua chuộc cài nguời của Cộng Sản VN và Cộng Sản Nga, Cộng Sản Tàu,.. liên tục khích động và thổi bùng lên phong trào phản chiến, với tầm mức quy mô đáng sợ.
Đặc biệt là bọn giáo sư thiên cộng tại Mỹ, họ rất đông và làm chủ sân khấu khoa bảng đại học. Người ta đã tôn họ là nhóm “ chính thống”, cái nhìn “ “chính thống” v.v. Tác hại của trường phái giáo sư thân cộng rất sâu rộng và còn tiếp tục mãi đến hôm nay, và còn sẽ rất lâu dài trong tương lai. Đó là con em nguời Việt tị nạn tại Hoa Kỳ và thế hệ thanh niên Hoa Kỳ lớn lên, ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của một cái nhìn cực kỳ tai hại và sai sự thật này. Cụ thể là rất nhiều các sách giáo khoa cho học sinh trung học và các tài liệu giảng dạy tại đại học khi nói về cuộc chiến VN, vẫn còn sử dụng các bài viết của truờng phái thân cộng: VN là một cuộc chiến “ Unwinable”, một cuộc chiến mà trong đó Việt Nam Cộng Hòa và chính quyền Mỹ đã sai, là quân đội Việt Nam Cộng Hòa không đủ khả năng và tinh thần chiến đấu, là HCM là nguời theo chủ nghĩa dân tộc, là người yêu nước… là “History maker”.
Gần đây nhất, vào ngày 21/4/2009, John Prados, cho phát hành cuốn sách:” Viet Nam: the history of Unwinable War 1945-1975”. Giờ này, trứớc những khổ đau ngày càng chồng chất cho bao thế hệ ngừời VN, thế hệ ra đời trước, trong và sau cuộc chiến,ông ta vẫn bất nhân tiếp tục luận điệu cũ, vẫn ca ngợi HCM và CS Hà Nội, không một chút cắn rứt lương tâm. John Prados là một điển hình cho những kẽ suốt đời không biết đến chữ thiện, vẫn cố chống lại những nghiên cứu mới của các sử gia trẻ không vướng bận hệ lụy chiến tranh như Mark Moyar, Andrew Wiest.
Tiếc thay, nhóm này quá đông. Đông đến nỗi các “ giáo sư” chính thống thân cộng này đã làm điên đầu Tổng Thống Nixon. Đến nỗi, mỗi ngày ông đều viết lên bảng nhiều lần là: “kẻ thù của chúng ta là bọn giáo sư đại học”.
Tâm lý chủ bại, một nếp sống dơ dáy buông thả của cái gọi là phong trào “ hippy”, đã làm thay đổi nếp sống, văn hóa và xã hội Mỹ. Làm đau đầu chính quyền Mỹ, làm các vị dân cữ Mỹ không còn dám đứng về phía lẽ phải. Họ phải đứng về phía dư luận báo chí bất lương. Dĩ nhiên họ không thể đánh mất lá phiếu, mất ghế của mình. Họ đã đồng loạt ngoảnh mặt với một Miền Nam đang hấp hối, cầu cứu, đang cần tiền, đang cần xăng dầu, cần súng đạn để chống trả một lực luơng quân sự điên cuồng, đuợc trang bị đầy đủ súng đạn của Cộng Sản quốc tế từ phương bắc tràn xuống…
Nhìn lại cuộc chiến, kể từ khi chúng ta thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa năm 1955, từ con số không mà nguời Pháp để lại, chúng ta đã liên tục đánh bật những đợt tấn công quân sự của bọn Cộng Sản miền Bắc, dù lớn dù nhỏ… Bên cạnh những mất mát to lớn của chiến tranh, chúng ta vẫn xây dựng thành công một miền nam trù phú, hiền hòa , nhân bản, tự do, giàu có. Từ ngữ “Sài Gòn hòn ngọc viễn đông” là một minh chứng mà chúng ta phải cần hãnh diện. Trong lúc thế giới đang phải đương đầu với thảm họa Cộng Sản, có thủ đô của nuớc nào mà, vừa phải trực tiếp chiến đấu chống Cộng Sản một mất một còn, lại còn có khả năng kiến tạo nên một thủ đô tươi đẹp, đến nỗi đuợc mệnh danh là “Hòn Ngọc” viễn đông hay không? Công lao này, không phải chỉ bởi chính quyền của TT Ngô đình Diệm, hay TT Nguyễn văn Thiệu, mà chính phần lớn bởi những bàn tay của triệu triệu nguời dân hiền luơng, và quân cán chính VNCH, cùng góp công góp sức. Chúng ta có thể khẳng định, cho dù Cộng Sản có mạnh và tài giỏi đến đâu, thì miền nam, nếu đựoc tiếp tục viên trợ, vẫn có thể thắng, và vẫn có thể xây dựng đuợc một xã hội phát triễn hài hòa về kinh tế, chính trị, tự do, dân chủ. Đau đớn thay, cơ nghiệp to lớn mà nguời dân miền nam, một tay vừa chống họa Cộng Sản, một tay vừa làm nên Hòn Ngọc Viẽn Đông, trong suốt 20 năm, … bỗng chốc tan tành!...
Chúng ta không thể nào nhìn nhận cuộc chiến tháng 3 ,tháng 4 năm 1975 là một chiến thắng quân sự của Cộng Sản. Đơn giản là chúng ta bị tuớc khí giới, đứng nhìn địch quân thản nhiên chiếm đất nước. Lực luợng quân sự của chúng ta không có viện trợ, không có tiền, không có xăng dầu để chạy quân xa, không có đạn để bắn, không có tiền để trả luơng… đơn giản là quân đội của chúng ta bị bó tay chịu trận nhìn Cộng Sản vào thôn tính miền nam. Trong khi đó, Nga và Tàu dốc tối đa tăng cường viện trợ quân sự cho Cộng Sản miền Bắc, chiếm lấy cơ hội ngàn năm một thuở mà dư luận bất công Mỹ, chính quyền Mỹ và quốc hội Mỹ đã tạo cho chúng. Chúng ta, thế kỹ 20, với sự tiến bộ về vũ khí vuợt bực, đồng nghĩa với tàn phá, hủy diệt, và thiệt hại nhân mạng một cách tàn bạo khủng khiếp, không thể nào tay không đánh giặc! không thể nào chiến đấu trong khi không có đạn dược xăng dầu tiền bạc. Kẻ thù của chúng ta, điều mà họ tận tâm thực hiện, đó không phải là chiến thắng quân sự, vì chúng biết điều này không thể nào làm đựơc trứoc quyết tâm cao độ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mà đó là phải chấm dứt cho đuợc nguồn viện trợ từ phía Hoa Kỳ, tức là tuớc vũ khí của chúng ta. Trong lúc đó, chúng vẫn tiếp tục nhận đuợc viện trợ của Cộng Sản Đông Âu, Nga, đặc biệt sự tận tình của đàn anh láng giềng phương bắc. Cộng Sản Trung Hoa, với chủ đích thôn tính Việt Nam qua bàn tay và cái đầu ngu ngốc, đam mê quyền lực của bọn đàn em Cộng Sản Hà Nội. Còn Cộng Sản Hà Nội thì sẵn sàng bán đứng lãnh thổ cho Tàu cộng, miễn là chiếm đuợc quyền cai trị toàn đất nước.
Bằng chứng lịch sử cho thấy, từ lúc bắt đầu viện trợ cho Cộng Sản Hà Nội, cụ thể là năm 1956 và năm 1958, khi mọi chuyện còn sơ khai thì Mao Trạch Đông đã buộc Cộng Sản Hà Nội ký giấy nợ, giao nộp lãnh thổ, làm điều kiện đổi lấy viện trợ. Bằng chứng sờ sờ qua lời tuyên bố của Ung Văn Khiêm và giấy chứng nhận của Phạm văn Đồng.Với mục đích đó, Cộng Sản Trung Hoa đã dốc toàn lực cho Cộng Sản Hà Nội, mượn tay Cộng Sản Hà Nội để thôn tính VN.
Hoàn toàn không sai khi chấp nhận rằng, Cộng Sản Hà Nội và Cộng Sản Bắc Kinh, Cộng Sản Nga đã thắng chúng ta tại nước Mỹ. Sách luợc của Cộng Sản Hà Nội dưới sự dẫn dắt của các đàn anh Cộng Sản, là tạo ra bất ổn chính trị tại Miền Nam, là tạo cho chính quyền miền nam một bộ mặt phi chính nghĩa, không có tự do báo chí, độc tài, đàn áp Phật giáo, gia đình trị, tay sai cho Mỹ v.v.. Chiến thuật của Cộng Sản Hà Nội là sử dụng và tạo ảo tuởng cho một nhóm nguời miền nam có học vấn và có tham vọng chính trị, nhưng không thể đi lên bằng tài năng qua cách chọn lựa công bằng của lá phiếu tự do, trong một đất nuớc có luật chơi của nguời dân làm chủ. Đó là Cộng Sản Hà Nội sẽ giúp không cho bọn này đạt đựoc quyền lực. Cộng Sản Hà Nội, qua nhóm nguời đó, đã thành công trong việc tạo bất ổn chính trị, tạo một bộ mặt đàn áp đối lập, đàn áp tôn giáo cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Từ những biến động chính trị đó, Cộng Sản Hà Nội dấy lên phong trào chống đối Mỹ, chống đối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa .Tạo ra phong trào phản chiến tệ hại rộng khắp trên thế giới, đặt trọng tâm là tại Hoa Kỳ, nhằm áp lực buộc chính quyền Mỹ không còn lựa chọn nào khác là phải nghe lời dư luận Mỹ, rút chân ra khỏi Việt Nam…. Điển hình cho việc khích động dư luận Mỹ là Cộng Sản Hà Nội đã gởi điệp viên len lõi vào giới báo chí Hoa Kỳ để phân tích tình hình và báo cáo lại cho Hà Nội là điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn. Và kết quả cuối cùng đã xãy ra như Hà Nội mong muốn. Cộng Sản đã đi bộ vào miền nam mà có thể nói gần như là không tốn một viên đạn, như lời của Thượng nghị sĩ Mansfield đã tiên tri năm 1955.
Để thực hiện chiến lựợc này, Cộng Sản Hà Nội đã chọn một số mục tiêu chính. Thứ nhất là dấy động nên phong trào tranh đấu của Sinh Viên Học Sinh, như đã đuợc chứng tỏ là rất thành công trong việc tạo ra cách mạng tại các quốc gia dân chủ. Cộng Sản Hà Nội chọn một số “trí thức” ngu si du học phản bội, một số nhà giáo vô luơng tâm trong nước để dễ bề quy tụ Sinh Viên Học Sinh. Như Lê văn Hảo Giáo sư Nhân Chủng học thuộc viện Đại học Huế. Bác sĩ Lê khắc Quyến nguyên khoa trưởng trường đại học Y Khoa Huế, Giáo sư Tôn thất Duơng Tiềm, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bà Tuần Chi Hiệu trưởng trường Nữ Trung hoc Đồng Khánh Huế. Hòang văn Giàu phụ khảo Đại học văn khoa Huế. Và đặc biệt nhất là sử dụng và khai thác rất hiệu quả tâm lý, truyền thống kính trọng vâng lời các bậc tu hành của nguời miền nam. Để có được đám đông, Cộng Sản đã cài nguời của chúng trở thành các tu sĩ, cũng như ra sức dụ dỗ những ngừoi tu hành nhưng nhẹ dạ nghe theo, hoạt động cho họ. Bằng cách tuyên truyền đẻ ra dư luận và lối suy nghĩ là chính quyền miền nam đàn áp tôn giáo. Với triết lý sâu xa của Chủ Nghĩa Cộng Sản là báng bổ tôn giáo, Cộng Sản đã xem thuờng các đấng từ bi như Phật như Chúa. Họ cài người vào tất cả các tôn giáo, không chừa tôn giáo nào. Tôn giáo tại miền nam là một cái khiên tốt nhất để che chỡ cho các hoạt động nằm vùng của Cộng Sản. Cộng Sản đã thành công trong việc sử dụng tôn giáo nhằm làm suy yếu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Chính quyền là xuơng sống, là cấu trúc của quốc gia, là con đẻ của dân chúng qua lá phiếu. Nhưng Cộng Sản đã rất thành công trong việc khích động một nhóm nhỏ dân chúng, kể cả một số nhỏ có học, hiếu chiến, nông nỗi ấu trĩ, xem chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bấy giờ là kẻ thù của tôn giáo. Cao Đài, Hòa Hảo, Công Giáo, Phật giáo…đâu đâu cũng có cộng sản. Với tỉ lệ uớc luợng là từ 60% dến 80 % dân số theo Phật Giáo, dựa trên triết lý, tu là cõi phúc, tu là tại tâm , tu để trút bỏ ưu phiền,mà phần nào ảnh huởng từ nho giáo, nên từ ngàn xưa, việc tu tập của PG không mang tính chọn lựa nghiêm nhặt, mà chỉ dựa trên tính cách tự nguyện, tự tâm là chính.
Với tính cách đặc thù của Phật Giáo VN và với con số tỉ lệ nguời dân theo PG quá đông như vậy, việc chọn PG để trà trộn hoạt động là điều đuơng nhiên và là trọng tâm hàng đầu của Cộng Sản. Việc TT Ngô đình Diệm chẳng may là nguời công giáo, đã là một lợi thế rất tốt cho Cộng Sản trong việc tạo nên những xì- căng- đan Tổng Thống Công giáo đàn áp Phật giáo. Cộng Sản Hà Nội là cha đẻ giật dây mọi chuyện. Và họ đã thành công vuợt bực. Tổng Thống Diệm bị giết, HCM vỗ tay reo mừng: “ Mỹ thay một con ngựa hay bằng một bầy ngựa dở”.
Tổ chức MTGPMN đựơc ra đời, nhằm thực hiện chiến lược gây xáo trộn bất ổn chính trị cho chính phủ VNCH, là người miền nam chống lại chính phủ miền nam. Làm đề tài cho báo chí phương tây và báo chí thân cộng Mỹ tận tình khai thác, từ đó đánh thẳng vào chính quyền và quốc hội Mỹ, làm cho chính quyền Mỹ đau đầu mà bỏ cuộc. Và khi nguời Mỹ bỏ cuộc bằng cách cắt viện trợ, chúng, Cộng Sản, đi thong dong vào miền nam mà không tốn một viên đạn. Cái gọi là MTGPMN tội nghiệp thay, không hề biết mình chỉ là diễn viên của một sân khấu trò lừa chính tri. Sau tháng 4/ 1975, MTGPMN mới biết đây chỉ là một vở tuồng…. Những kẽ quá ấu trĩ như thế, mộng và thực còn không phân biệt đuợc, thì làm gì có tài năng để mơ chuyện công hầu, để cai trị đất nuớc? Sau khi vỡ tuồng MTGPMN đuợc thành phần thứ ba hết lòng hết sức diễn xuất thành công, tháng 4/ 1975 tổ chức này bị hất ngay ra ngoài lề chính trị một cách phũ phàng thẳng thừng. Một số còn bị đưa vào tù vì dám đòi hỏi công lao này nọ với “chính quyền cách mạng”
Trở lại với vấn đề chính, vấn đề “ có lửa mới có khói”. “Lửa” nào tại miền nam VN đã làm “Khói” đen bốc lên tại Mỹ? những nguyên nhân nội tại nào đã làm mất miền nam?
Với những hứa hẹn rất “thơm”: “ Giúp dành lấy chính quyền về tay nhân dân”, “for free”, nhóm SV tranh đấu phản chiến, thành phần thứ ba, Cộng Sản nằm vùng mặc áo nhà tu,ra sức hoạt động phá hoại miền nam. Họ đã tạo nên hình ảnh một miền Nam đầy bất công, dân chúng bất mãn nỗi dậy.Chính quyền đàn áp báo chí, báo chí bị bịt miệng. Chính quyền đàn áp Phật Giáo qua việc bắt bớ các nhà sư (Cộng Sản trá hình). Cuộc chiến Mậu Thân là do chính quyền miền Nam suy yếu, không thể chống nỗi Cộng Sản,.. là do dân chúng bất mãn tổng nỗi dậy, tổng khởi nghĩa. Bọn Cộng Sản và bọn thân cộng phương tây chỉ mong có thế!. Trong nuớc, bọn SV, nhạc sĩ nằm vùng như Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, Trịnh Công Sơn… ra sức tạo một tâm trạng lo lắng bất an, uể oải chán ghét chiến tranh, u buốn về thân phận con nguời đầy oan trái, bất công, trốn lính cho tầng lớp thanh niên SV trẻ tuổi. Trong khi mà thành thị vẫn còn bình an, còn phòng trà tiếng nhạc để hát những bài hát của nhóm VC nằm vùng,…... thì ngoài tuyến đầu lửa đạn, những thanh niên khác ngày đêm cầm súng, đem mạng sống của mình để bọn như Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập, Miên đức Thắng…có thì giờ nhàn rỗi mà than phiền cuộc sống của họ, than phiền về niềm đau khổ vu vơ mơ mộng nào đó mà họ tuởng tuợng ra, nhằm gây tâm trạng bạc nhuợc càng nhiều càng tốt cho thanh niên sinh viên học sinh, giới trẻ miền nam.
Không ai khác, những kẽ bất tài nhưng đầy tham vọng chính trị đen tối đó, đã ruớc hổ về nhà. Đa số bọn họ, cuối cùng tuơng lai chính trị vẫn là con số không. Như Đoàn Văn Toại, Truơng như Tảng chẳng hạn,…Sau tháng 4/1975, họ ngồi trong tù Cộng Sản gậm nhấm nỗi đau quá tham vọng đỉnh chung mà mờ đi lý trí! Họ đã thành tâm góp sức đập đổ một chế độ tự do dân chủ, để “ thuởng thức” một xã hội mà trong đó, nguời dân và cả chính họ phải răm rắp nghe lời đảng. Đảng là dân tộc, đảng là tổ quốc..đảng là lý trí, đảng là đỉnh cao trí tuệ…một cái đảng do ngoại bang đẻ ra..HCM không đã nói: “Ai có thể sai, nhưng Stalin và Mao Chủ Tịch thì không thể sai đựợc”…Hoặc những khẩu hiệu treo đầy đường đầy nơi cộng cộng : “ Tình hữu nghị Việt Nam Liên Xô đời đời bền vững”.
Chúng ta không hiểu nhóm trí thức ủng hộ Cộng Sản miền nam thực sự nghĩ gì? Đã “thấm” đuợc điều gì? với những khẩu hiệu ôm chân ngoại bang nịnh bợ như thế?…Nhưng hỡi ơi, đã quá muộn và quá đau cho những nguời không hề ủng hộ chế độ Cộng Sản, cho cả dân tộc, cả đất nước.Tại sao họ im như thóc truớc những khẩu hiệu nịnh bợ, ngu xuẩn và nhục quốc thể đến như thế? Khi mà, miền nam trước đây chưa bao giờ có một khẩu hiệu hay lời phát biểu của chính quyền nào kiểu như vậy! Nhưng chính họ, những kẻ mệnh danh là khoa bảng, là trí thức, nhà nhà tu, lại luôn miệng chửi rủa VNCH là tay sai, ôm chân đế quốc Mỹ? Họ có hiểu thế nào là liêm sỉ không?
Trở lại tác phẩm BĐMT, đọc trong đó, bạn sẽ thấy toàn bộ sách luợc và chiến thuật trên, được thực thi một cách chính xác, cụ thể, và hoàn hảo ở cố đô Huế. Tiêu biểu cho sách lược cài cán bộ Cộng Sản duới dạng tu sĩ Phật Giáo là vụ Chín Hầm. Thời TT Ngô Đình Diệm, một số lớn cán bộ Cộng Sản chính quy và Việt Cộng nằm vùng cực kỳ nguy hiểm đã bị Lực Lượng Đặc Nhiệm Miền Trung đem nhốt tại địa danh Chín Hầm. Sau khi Tổng Thống Diệm bị sát hại, đất nước rơi vào cảnh rối loạn, đen tối, vô chủ, mạnh ai nấy làm chủ.
Việc giải thoát nhóm cán bộ Cộng Sản cực kỳ nguy hiểm này đuợc thực hiện một cách rất đơn giản: Nhóm cán bộ Cộng Sản này được cung cấp dao cạo và quần áo nâu sồng. Họ chỉ việc cạo trọc đầu và mặc vào bộ áo tu hành là trở thành “Thầy”!.
Các ông Đôn Hậu, Trí Quang, Chánh Trực, theo kế hoạch và lệnh của đại diện Cộng Sản Hà Nội là Hoàng Kim Loan, rỉ tai Phật tử tại chợ Đông Ba, là quý thầy bị Diệm Nhu, Cần Lao đàn áp Phật Giáo, nhốt tại Chín Hầm. Là phật tử thuần thành thì phải luôn luôn sùng kính các thầy Đôn Hậu, Trí Quang, và… cung kính không bằng tuân lịnh, họ đã hùng hổ hiên ngang đến đập phá cửa tù, giải thoát cho “quý thầy Cộng Sản” đang bị bức hại! Quả là đạo pháp đang bị lâm nguy như các ông Đôn Hậu, Trí Quang đang mạnh mẽ báo động! Nhóm “thầy”này sau khi đựợc Phật tử giải cứu, tất nhiên, chẳng bao giờ có một cái chùa nào để trở về. Các “thầy”, kẻ lên núi, người xuống biển, tiếp tục “sự nghiệp cách mạng.. giải phóng miền nam!”
Đến năm 1975 thì các “Thầy Cộng Sản” hiện nguyên hình. Thực hiện xong điệp vụ đơn giản này, ông Trí Quang đã lập đuợc công lớn, rất lớn với Cộng Sản Hà Nội: một là giải thoát cán bộ Cộng Sản không tốn một viên đạn, hai là tố cáo và gieo rắc hận thù trong lòng Phật tử là chính quyền TT Diệm quả thật là độc tài gia đình trị, đàn áp Phật Giáo, bắt nhốt quý thầy! Cái di hại thứ nhất còn có giới hạn. Cái di hại thứ hai tuy không rõ ràng như cái di hại thứ nhất, nhưng hệ lụy của nó thì lớn khôn cùng.
Sáu chính quyền sau TT Diệm liên tiếp sụp đổ dẫn đưa đất nuớc đến bờ vực thẳm. Cũng vì sợ các nhóm Phật tử này, sợ tiếng đàn áp quý thầy, sợ tiếng đàn áp Phật Giáo. Sáu chính Phủ :Khánh, Minh.,Khiêm, Sửu,Hương, Khánh, Đáng đó đã khiếp nhựoc và chịu sự khống chế của nhóm nhỏ Phật tử hiếu chiến, bị Cộng Sản giựt dây này. Cụ thể là qua bàn tay Trí Quang, dẫn đến việc các chính quyền kể trên luôn vâng lịnh “quý thầy”, và “quý thầy” mặc tình lèo lái con thuyền quốc gia đến bến bờ Cộng Sản…
Cho đến khi “thầy” Trí Quang bị bắt thì con thuyền quốc gia mới tạm yên trong 9 năm sau đó. Chúng ta thấy, màn kịch này khá ấu trĩ, nhưng tại sao nó thành công dễ dàng đến vậy? Tâm lý sùng kính quý thầy đôi khi đến độ mù quáng của nguời dân miền nam là câu trả lời chính xác nhất. Đó là con đuờng tốt nhất, hiệu quả nhất , dễ dàng nhất để làm cho miền nam rối loạn chính trị. Chính quyền miền nam mang bộ mặt độc tài đàn áp Phật Giáo nhiều chừng nào thì càng tốt cho Cộng Sản và nhóm báo chi phản chiến nhiều chừng nấy. Báo chí phương tây dựa vào đó gây dựng nên phong trào phản chiến chống lại Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ dùm cho Cộng Sản Hà Nội. Thái độ bỏ cuộc, bỏ rơi miền nam của các chính trị gia và chính quyền Hoa Kỳ chỉ là vấn đề thời gian.. Đó chính là điều thiết yếu quan trọng hàng đầu, hơn hết mọi việc, mà Cộng Sản Hà Nội phải đạt cho đuợc. Và Cộng Sản đã đạt đuợc!
Nhìn lại những biến động chính trị của đất nuớc, sau khi giết đựợc TT Diệm, qua bàn tay các tướng lãnh phản quốc, Trí Quang một mình một chợ, điều khiển chính truờng. Trí Quang muốn Nguyễn Khánh thăng, thì Nguyễn Khánh mới được thăng, Trí Quang muốn Nguyễn Khánh giáng là Nguyễn Khánh phải giáng. Nguyễn Khánh không làm vừa ý thầy, không cách chức hoặc thăng chức nguời này, không bỏ tù hay thả tù nguời kia, thậm chí không tử hình nguời này nguời kia theo ý thầy, là kể như Nguyễn Khánh mạng vong! Việc Giết ông Ngô đình Cẩn là một bằng chứng lịch sữ rành rành qua lệnh miệng của Trí Quang. Ngay cả Henry Cambot Lodge muốn xin tha chết cho ông Cẩn mà cũng đành bó tay. Thật ra, những điều Trí Quang làm, là do chỉ đạo của CSHN. CSHN không thể tha Ngô đình Cẩn, vì Ngô đình Cẩn quá giỏi trong việc phá vỡ các ổ hoạt động tình báo của CS, việc giết Ngô đình Cẩn là một điều đuơng nhiên. Muợn tay Trí Quang, đổ thừa ông Ngô đình Cẩn đàn áp băt bớ “ quý thầy”, giết ông Cẩn thật là việc làm hợp lẽ trời!
Ngoài việc cài nguời vào hệ thống tu sĩ, mặt trận sinh viên học sinh cũng là điểm chiến luợc mà Cộng Sản Hà Nội cần sử dụng. Tại Huế, các “ thầy giáo”mô phạm như Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Ngô Kha, cùng với các “trí thức” khác, hợp tác với các ông Đôn Hậu Trí Quang, Như Ý, Thích Thiện Siêu , Thích Chánh Trực..v.v và đám trí thức cũng như sinh viên như: Giáo sư Hòang Phủ Ngọc Tuờng , Giáo sư Ngô Kha, Sinh viên y khoa Hòang phủ Ngọc Phan, Thái Thị Kim Lang SV văn khoa du học Đức, đỗ Tiến sĩ triết học, Thái thị Ngọc Dư du học Pháp đỗ tiến sĩ địa lý học, Bác sĩ Phạm thị Xuân Quế, Trần Anh Tuấn du học Mỹ , đỗ tiến sĩ luật, Nguyễn Đắc Xuân, Hùynh sơn Trà , Đặng văn Sở, Trần Hoài SV sư phạm, Nguyễn Đức Thận Đại học sư phạm anh văn, Vĩnh Kha sinh viên văn khoa, Trần bá Chữ đại học sư phạm tóan,… tạo ra biến động miền trung. Như tác giả than vãn: “đau lòng thay, đấng từ bi đã bị bọn này lợi dụng!” Hậu quả sau đó của việc lớn mạnh của các tổ chức nằm vùng này, là cuộc tắm máu rùng rợn năm Mậu Thân 1968. 5327 thuờng dân vô tội chết thảm và 1200 bị mất tích, bởi chính bàn tay của những nguời cùng xứ Huế!. Một cuộc thảm sát lớn nhất của CS tại miền nam, chỉ sau CCRĐ tại miền bắc, nhưng tính chất man rợ thì hơn nhiều.Cộng Sản Hà Nội và các đao phủ thủ như Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn thị Đoan Trinh, Nguyễn Đắc Xuân v.v..thực thi triệt để lý thuyết đấu tranh giai cấp của Marx. Được nuôi sống bảo bọc bởi miền nam hiền luơng đầy đạo lý, tình nguời, nhưng nhóm tiếp tay cho Cộng Sản lại mang bản chất ngoại lai của Cộng Sản quốc tế. Họ giết nguời y hệt như câu thơ của Tố Hữu: “Giết giết nữa bàn tay không phút nghĩ..” Họ đã làm những điều mà một con nguời bình thuờng không ai dám làm.
Có thể nói, Huế, nơi đặt kinh đô của một vuơng triều có công lớn nhất trong việc mở mang bờ cõi , về phương nam, cũng như ra các hãi đảo xa xôi như Hoàng Sa từ mấy trăm năm truớc… thì oan nghiệt thay lại là nơi phát triễn một tổ chức Cộng Sản nằm vùng lớn nhất, giúp Cộng Sản Hà Nội đắc lực nhất trong việc thôn tính miền nam để rồi làm mất lãnh thổ, dâng đất và đảo Hoàng Sa, Truờng Sa lại cho “nguời ân nhân” Trung Cộng. Trong số đó, cũng có những nguời trong hoàng tộc họ Nguyễn! Các Chúa Nguyễn Vua Nguyễn nơi thế giới bên kia, chắc hẵn đang nghẹn lời! …
Đọc BĐMT, để đau lòng thấy là, có quá nhiều giới có học vị khoa bảng, giáo sư, bác sĩ, dược sĩ, SV y khoa, SV khoa học, đựơc miền nam nuôi duỡng và đầu tư, đã tiếp tay với Cộng Sản vô nhân. Họ may mắn hơn hàng vạn những thanh niên nông thôn thành thị không có đựợc cơ may học hành như họ. Được học hành bỡi tài nguyên và sự sởi lỡi của miền nam, họ dùng kiến thức mà miền nam đầu tư cho họ, để phá nát một chính thể tự do dân chủ, mà đại đa số dân chúng đang cố công xây dựng. Họ có quyền căm thù Tổng Thống Diệm, Tổng Thống Thiệu, nhưng họ không có quyền phá nát chính thể và lý tuởng tự do của Miền Nam, và dâng miền nam cho Cộng Sản. Họ là những kẽ tán tận luơng tâm. Miền Nam đau lòng vì đã sản sinh ra họ. Đã có hàng loạt các bài báo của miền Nam tự do bênh vực cho họ, quy chụp cho Cảnh Sát Quốc Gia, cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bắt bớ nguời bừa bãi…bắt nguời vô tội, bắt bớ đối lập. Sau 4/1975. Nhóm “vô tội” này hiện nguyên hình là Cộng Sản nằm vùng, là tai ương cho miền nam
Đọc trong tác phẩm BĐMT, quý vị sẽ thấy sự khó khăn, can đảm và liều mạng của tác giả khi phải đương đầu với không chỉ Cộng Sản, với dư luận chính quyền đàn áp Phật Giáo, đàn áp SV, mà còn với những chính trị gia đệ tử ruột của quý thầy. Quý thầy( Cộng Sản) tuy chỉ là một công dân, nhưng quý thầy có một rừng phiếu của Phật tử.
Cộng Sản rất thành công khi muợn cái áo nâu sồng đi buôn chính trị…Ai muốn quyền lực một cách nhanh chóng không qua tài năng thì chỉ cần vâng theo ý chỉ của thầy là có đuợc thiên hạ! Và đương nhiên khi có đựợc thiên hạ thì phải trả ơn và tuân chỉ “thầy Cộng Sản”. Mối quan hệ nhân quả kiểu này đã là một họa lớn cho miền nam. Đó là cách mà Cộng Sản đã sử dụng “ quý thầy” để điều khiển chính truờng miền nam. Việc phái đoàn quốc hội Việt Nam Cộng Hòa ra thăm chiến truờng Trị Thiên Huế là một bằng chứng sống cho việc Cộng Sản len lỏi vào chính trường qua ngã các thầy như thế nào.Nó nói lên đầy đủ các tác hại khi có sự liên kết đen giữa những kẽ mưu đồ chính trị với nhau. Dưới chỉ thị của ông Thích Thiện Siêu, phái đoàn gồm 4 dân biểu đã vâng lịnh ông Thiện Siêu, yêu sách đòi thả trên 20 cán bộ Cộng Sản, thuộc thành phần chủ chốt nguy hiểm. Bằng cách dùng cái mác “dân biểu”, họ áp lực đòi tác giả phải thả nguời của ông Thiện Siêu. Các chính trị gia kiểu này vô tư tuyên bố, nhóm hơn 20 nguời này là “ dân lành vô tội” bị tác giả “ bắt bớ bừa bãi”. Yêu cầu ông trưởng ty phải thả nguời ngay!…Sau tháng 4/1975, ông Thiện Siêu và nhóm người mà bốn dân biểu trong đó có bà Kiều Mộng Thu, kết tội ông trưởng ty Cộng Sản Quốc Gia Liên Thành bắt bớ bừa bãi, đã hiện nguyên hình là các cán bộ Cộng Sản thứ gộc!
Đọc Biến Động Miền Trung, để đánh giá lại nguyên nhân thất bại của một chính nghĩa, để đánh giá lại những “Lửa”của những biến động chính trị tại Sai Gòn, tại miền trung đã dẫn đến “Khói” tại Hoa Kỳ như thế nào. Kết quả: tang thương dâu bễ tận cùng cho đất nước: mất quyền làm nguời, mất dần lãnh thổ….
Những điều xãy ra tại xứ Huế thơ mộng lãng mạn là một bức tranh tiêu biểu cho cái họa Cộng Sản nằm vùng mà Miền Nam đã nuôi ong tay áo. Những nguời này, bây giờ phần lớn đều không được Cộng Sản sử dụng nữa. Bị loại ra khỏi vòng danh lợi, tuy nhiên họ vẫn cố bào chữa cho hành động nối giáo cho giặc của mình. Họ cho là cá nhân họ đã tranh đấu vì lý tuởng, vì muốn đem lại công bằng cho một xã hội đầy rẫy bất công tại Miền Nam. Danh từ thì mới thoạt nghe mang đầy tính vị tha cao cả, nhưng hàm chứa bên trong là những khát khao quyền lực, không phải qua lá phiếu công bằng, mà bằng bàn tay, bằng vũ khí của Cộng Sản Hà Nội, vũ khí Tàu Cộng, Nga. Họ biết rất rõ là Cộng Sản Hà Nội đã dùng vũ khí của Cộng Sản quốc tế tấn công miền Nam. Họ biết rất rõ tội ác Cộng Sản qua một rừng sách vỡ phong phú tự do của Miền Nam, họ đã biết thế nào là Cải Cách Ruộng Đất…nhưng họ vẫn nhắm mắt bắt tay với Cộng Sản Hà Nội, với Hồ Chí Minh. Họ trơ trẽn không nhìn nhận cái thực tế là miền nam là một quốc gia dân chủ, có đầy đủ quyền làm nguời, có quyền biểu tình chống chính phủ, ngay cả “ quyền” đốt xe Cảnh Sát, tấn công phòng thông tin văn hóa Mỹ, chiếm luôn BCH/ CSQG, chiếm luôn đài phát thanh! Họ đã có quá nhiều quyền hành! Họ tự do ngay cả còn hơn các nước tự do bây giờ…
Những người mà lịch sử gọi là “Việt Cộng Nằm Vùng” đã lợi dụng luật pháp tự do để xâm hại hạnh phúc của triệu triệu nguời không bao giờ muốn sống chung với Cộng Sản., Họ đã giúp rước nhanh Cộng Sản vào nhà. Họ kêu gào chỉ trích miền nam tham nhũng độc tài hối lộ, tiếp tay xé nát miền Nam dùm cho Cộng Sản Hà Nội. Họ, thành phần “trí thức” tranh đấu, SV tranh đấu, nhà tu tranh đấu… chỉ tham cái quyền lợi vị kỷ nhỏ nhoi mà không thấy cái họa lớn. Không thấy HIỂM HỌA CỘNG SẢN đang như con diều hâu bay ngay sau lưng một con én non Tự Do Dân Chủ. Con én yếu ớt đó đang tập bay, đang cố hết sức mình tránh xa con diều hâu. Nhưng những kẻ bất luơng chính trị thay vì khuyến khích nó, đã chê bai con én nhỏ bé là bay quá chậm. Ném đá nó, bắn nó…đến khi nó bị thương không còn sức để bay nhanh thì con diều hâu đến nuốt chững con én! Những kẽ nằm vùng lớn lên trong nhân nghĩa miền nam, vì tham vọng quyền lực đen tối họ đã đập phá cái thể chế mà triệu triệu người chân chất khác rất bằng lòng và đang cố công xây dựng cho ngày mỗi hoàn hảo. Họ hoàn toàn không có khả năng xây dựng cái mà họ cho là sẽ tốt đẹp hơn, mà chỉ biết phá hoại. Thay vì phải tạo ra những điều mà họ cho là cần phải thay đổi qua lá phiếu dân bầu, họ đã mượn bàn tay và vũ khí của Cộng Sản Hà Nội, mà thực chất là Cộng Sản Tàu, Cộng Sản Nga, Cộng Sản Đông Âu, để phá tan cho bằng đựợc chính quyền tự do dân chủ còn son trẻ. Tuy là son trẻ nhưng cũng đủ để tạo nên tự do đúng nghĩa và gầy dựng nên hòn Ngọc Viễn Đông từ đống gạch vụn của chiến tranh thời Pháp thuộc. Bàn tay của họ cùng với bàn tay Cộng Sản phương Bắc, đã thắm máu tươi của các trẻ thơ vô tội, nguời dân vô tội trên khắp nẽo đường đất nước miền nam. Những vụ đặt mìn trên quốc lộ, ném lựu đạn vào rạp hát, liệng lựu đạn vào truờng học, pháo kích vào trừong học đều có công lao của nhóm Cộng Sản nằm vùng mang danh thầy giáo, mang danh Sinh Viên, giả danh các bậc tu hành. Cộng Sản đã dùng họ trong chiến luợc chiến tranh khủng bố gây hoang mang sợ hãi trong dân chúng và đem đến hình ảnh một chính quyền miền nam yếu kém, không thuận lòng dân, không chống nỗi Cộng Sản.
Dưới sự tô vẽ của báo chí Cộng Sản và báo chí thiên tả phản chiến một chiều, nguời dân Mỹ đã thật sự nản lòng. Và cuối cùng là đặt một dấu chấm hết đau đớn cho miền nam, qua việc Mỹ đột ngột cắt viện trợ. Khi hình ảnh đồng bào chen lấn dành leo lên trực thăng trên nóc nhà tòa Đại Sứ Mỹ và triệu người bỏ nước ra đi trên con thuyền mong manh được loan truyền khắp thế giới, thì luơng tâm của thế giới mới tĩnh ngộ, mới thấy đựợc sự thật là nguời miền nam sợ hãi Cộng Sản đến chừng nào, mới thấy đựoc ngừoi dân miền nam đã thực sự chiến đấu cho lý tuởng của nguời miền nam! Và chuyện lúc đó thì đã quá muộn màng, cho cả một dân tộc Việt Nam!
Bài học rút ra là gì? Là công dân thời chiến, thì điều đầu tiên là phải học đuợc chữ “BIẾT”. Đó là, ‘BIẾT” đâu là nghĩa lớn, đâu là việc nhỏ. Biết việc chống lại Chủ Nghĩa Cộng Sản là tối thuợng, biết việc ghét bỏ chống lại chính quyền đương thời là việc nhỏ. Biết đòi hòi chừng mực, biết hạn chế “tự do đập phá” của mình. “Biết” chính quyền là xuơng sống của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, là giữ trách nhiệm bảo vệ một thể chế dân chủ trước hiểm họa Cộng Sản. Đất nước nào cũng phải có chính quyền.“Biết” trước khi muốn phá đổ một chính quyền, thì chúng ta cần có sẳn trong tay một chính quyền tốt hơn để thay thế. Chính quyền sụp đổ, Cộng Sản tràn vào! Không ai có thể mượn cớ này cớ nọ để giựt sập chính quyền rồi hủy hoại luôn cái thể chế dân chủ, rước họa Cộng Sản vào nhà . Việc làm này, đuơng nhiên đồng nghĩa với việc bán nước. Vì CSHN đã và đang bán nuớc…
Hủy hoại nền dân chủ son trẻ của miền nam là tội đồ của dân tộc, tội đồ của non sông, tội đồ với tiền nhân.
Bây giờ, khi mà sự thật cũng như hậu quả của chế độ Cộng Sản đã đuợc thế giới công nhận là thảm họa của nhân loại, đất nuớc mất dần trong tay ngoại bang, dân chúng không có nhân phẩm, không có quyền làm chủ đất nước, làm chủ bản thân, thì bọn người “ nằm vùng” này bắt đầu chối tội. Xin cảm ơn tác giả Liên Thành, đã chỉ thẳng mặt nhóm bất luơng chính trị này.
Và sau hết, bài học nào cho dân tộc Việt Nam? Bài học nào cay đắng hơn bài học này?
(nguồn: chinhnghia.com)
Phần 1
***
Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963
Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy, sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh.Thành phố Huế có 3 quận đó là quận I, II, III. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội).
***
Miền Trung và Thừa Thiên-Huế sau ngày 1-11-1963
Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên, Huế, đại đa số quần chúng theo đạo Phật, có thể đến 2/3 dân số. Trong cuộc đảo chánh 1/11/1963, lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa và hạ sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng hai bào đệ của Tổng Thống là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, ngoài Hoa Kỳ và một số Tướng Lãnh VNCH, Phật giáo Ấn Quang là một trong những lực lượng chủ lực của cuộc đảo chánh này. Vì vậy, sau khi thành công, thế lực và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Quang trong chính quyền và quần chúng rất mạnh.Thành phố Huế có 3 quận đó là quận I, II, III. (hay Hữu Ngạn, Tả Ngạn và quận Thành Nội).
Tỉnh Thừa Thiên có 10 quận, từ Bắc giáp ranh với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Phía Nam thành phố Huế là Hương Thủy, Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ, phía Tây là Quận lỵ Nam Hòa. Tổng côïng có 73 Xã. Dựa theo hệ thống tổ chức địa dư và hành chánh của Chính Phủ VNCH, Phật giáo Ấn Quang có 73 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, 13 Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Quận, và Tỉnh hội Phật giáo. Ngoài ra, trong chính quyền, Phật giáo Ấn Quang còn có các tổ chức ngoại vi: Công Chức Phật Tử, Học Sinh Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Sư Đoàn I thì có Quân nhân Phật Tử (Chiến Đoàn Nguyễn đại Thức), Cảnh Sát Quốc Gia thì có Cảnh Sát Phật Tử, đặc biệt hơn nữa là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba.Lãnh đạo Phật giáo miền Trung và Thừa Thiên Huế là thầy Thích Đôn Hậu, trụ trì Chùa Linh Mụ, với chức vụ Chánh Đại Diện Phật Giáo Ấn Quang Miền Vạn Hạnh.
Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và lá bài tối quan trọng của cộng sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan.
Mậu Thân 1968, trong những ngày đầu chiếm Huế, Hà Nội tưởng đã thắng, nên cho thầy tu Thích Đôn Hậu xuất đầu lộ diện, trong lực lượng ngoại vi của cộng sản : Lực Lượng Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Hòa Bình. Những ngày kế tiếp, khi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Cảnh Sát Quốc Gia và lực lượng Hoa Kỳ phản công mạnh, tái chiếm Huế, Hoàng Kim Loan đã phái cán bộ hộ tống Thích Đôn Hậu qua ngã Chợ Thông, Văn Thánh lên mật khu và từ đó đi ra Bắc.
Tại Hà Nội, Đôn Hậu cùng với các tên cộng sản nằm vùng tại Huế trước 1966, như Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm v.v.. theo lệnh Trung Ương Đảng, thành lập phái đoàn Đại Diện Trí Thức và Tôn Giáo Miền Nam đi Trung Cộng, Tây Tạng, truyên truyền cho Hà Nội. Đến 1975 y trở lại trụ trì tại Chùa Linh Mụ.
Nhân vật thứ hai đầy quyền uy, không những đối với Phật Giáo đồ miền Trung, mà toàn cả Phật Giáo đồ miền Nam Việt Nam, đó là Thích Trí Quang – Ông này tên thật là Phạm Văn Bồng. Quê quán làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cùng quê với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Xuất gia từ năm 14 tuổi, trước 1955, y đã trú ngụ tại Chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm nằm về phía Tây thành phố Huế cạnh dốc Nam Giao và dốc Bến Ngự, sát bên nhà thờ cụ Phan Bội Châu.
Trụ trì chùa Từ Đàm là Thích Thiện Siêu cũng là cơ sở của Hoàng Kim Loan. Sau năm 1975 Thiện Siêu được Hà Nội cho làm Dân Biểu trong Quốc Hội của chúng. Theo hồ sơ của sở Liêm Phóng, tức Mật Thám Pháp còn lưu tại ban Văn Khố Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế và sau này tin tức thẩm vấn cán bộ Việt cộng được cập nhật thêm, thì Thích Trí Quang là đảng viên côïng sản. Thích Trí Quang gia nhập đảng cộng sản Việt Nam vào 1949, tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu, Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phía Tây lăng vua Gia Long, cách làng Đình Môn khoảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích trí Quang là Tố Hữu, đảng viên cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam. Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng cộng sản.
Tên Việt Côïng thứ 3 đội lốt thầy tu, tối nguy hiểm, đó là Thích Chánh Trực, đệ tử ruột, truyền nhân của Thích Trí Quang. Thích Chánh Trực tu tại Chùa Tường Vân, nằm giữa chùa Từ Đàm và Đàn Nam Giao. Chùa Tường Vân là nơi tu hành của Ngài Thích Tịnh Khiết Giáo Chủ Phật Giáo V. N. Thích Chánh Trực hoạt động bề nổi, mọi cuộc biểu tình, tuyệt thực, lên đường xuống đường, đều có mặt Thích Chánh Trực. Trực là cơ sở Tôn Giáo Vận của Hoàng Kim Loan đã từng đưa Hoàng Kim Loan vào ở với y tại Chùa Tường Vân trong hơn 1 năm. Tên này dáng dấp cao to, mắt trắng môi thâm, nhìn thẳng vào hắn thấy rõ 3 chữ : Tham, Sân, Si, hiện trên nét mặt, khuôn mặt của kẻ lưu manh gian ác. Hắn đã lén lút có một đứa con trai với một nữ tín đồ, chuyện này Hoàng Kim Loan biết rõ hơn ai hết.
Từ sau ngày đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, thế lực, quyền lực tột đỉnh của Phật Giáo Ấn Quang tại miền Trung và Thừa Thiên-Huế, nằm gọn trong tay của 3 tên cộng sản : Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, phía sau hậu trường là Hoàng Kim Loan cán bộ Điệp báo phụ trách Dân Vận, Trí Vận và Tôn Giáo Vận sắp xếp và giựt giây. Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập tại miền Trung, Trung Tâm Quyền Lực. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy Hành chánh và Quân sự từ Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng v...v... tại 6 Tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa Thiên – Huế, đều phải có sự chấp thuận của chùa Từ Đàm, của Thầy. Mọi cuộc biểu tình, lên đường, xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu chống đối chính quyền Trung Ương Sài Gòn, đều xuất phát từ chùa Từ Đàm, từ Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu. Trong khi đó thì tên điệp báo Việt cộng Hoàng Kim Loan dựa vào thế lực của Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực, tổ chức, kết nạp và gài nội tuyến vào hàng ngũ Phật giáo. Từ Khuôn Hội Phật giáo ở cấp Xã, Quận, Tỉnh Hội, vào Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế, vào Tổng Hội học sinh tại các trường Trung Học, vào các nhóm tiểu thương chợ Đông Ba, Bến Ngự, và vào cơ quan Quân sự, Hành chánh của chính phủ Việt Nam Côïng Hòa tại Thừa Thiên, Huế. Ngay cả một vài đảng phái chính trị xưa nay nổi tiếng chống Cộng cũng bị Hoàng kim Loan cài nội tuyến vào.
Ngay khi tiếng súng đảo chánh 1-11-1963 vừa dứt tại Huế, theo lệnh Hà Nội, mục tiêu đầu tiên của Hoàng Kim Loan là đánh tan tành, đánh vỡ ra từng mảnh vụn các cơ quan Tình Báo Quốc Gia và giải thoát tất cả các cán bộ cao cấp của bọn chúng đã bị các cơ quan này bắt giữ.
Thừa Thiên - Huế trước 1963, các cơ quan An ninh, Tình báo hoạt động rất hữu hiệu, hầu hết các tổ chức, cơ sở Việt cộng đều bị khám phá và bị bắt giữ bởi Ty Công An Thừa Thiên. Trưởng Ty là ông Lê Văn Dư, và Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung, Trưởng Đoàn là ông Dương Văn Hiếu. Thế nhưng, còn có một cơ quan tình báo tối mật của quốc gia đóng tại Huế mà hầu như ít ai biết được.
Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương, cạnh Tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự màu hồng, trang nhã, trầm lặng, mặt tiền nhìn ra dòng sông Hương, một dàn hoa vông vang vàng như nghệ phủ kín bờ tường, đường vào cổng chính của ngôi biệt thự cứ mỗi độ hè về, hai hàng phượng vĩ bên vệ đường nở đỏ, phủ đầy lối đi. Thoạt nhìn cứ ngỡ ngôi biệt thự màu hồng này là của một giai nhân quý phái nào đó ở đất Thần Kinh. Nào có ai ngờ rằng ngôi biệt thự màu hồng thơ mộng này chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những điệp vụ ngoài Bắc.
Những điệp viên của cơ quan này tung ra miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội. Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc, vào năm 1956, là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này.
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh này đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm, thì cũng nghĩ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những điệp vụ phía Bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một bông hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam.
Tại Huế một vài ngày sau khi cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, theo lệnh của của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, hằng chục ngàn Phật giáo đồ ồ ạt xuống đường biểu tình hoan hô, đả đảo, truy bắt Cần Lao, truy bắt Công An, Mật Vụ Nhu Diệm. Cấp chỉ huy các đơn vị tình báo của Ty Công An Thừa Thiên Huế và Đoàn Đặc Nhiệm công tác miền Trung, kẻ bị bắt tống giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị sa thải, kẻ thì bỏ trốn. Chỉ huy Trưởng Cơ Quan Điệp Báo hoạt động tại miền Bắc là Phan Quang Đông cũng cùng chung số phận.
Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh lực lượng đảo chánh tại Huế, đã phái một đơn vị nhỏ cùng với một sĩ quan bao vây căn nhà màu hồng bắt ông Phan Quang Đông. Ông Phan Quang Đông nói với viên sĩ quan:- Tôi phải gặp Tướng Đỗ Cao Trí trước khi nạp mình cho các anh. Yêu cầu của ông Đông đã được Tướng Đỗ Cao Trí chấp thuận. Buổi gặp mặt chỉ có 3 người. Tướng Đỗ Cao Trí, ông Phan Quang Đông và chánh văn phòng của ông Đông. Ông Đông nói rất ngắn, gọn với Tướng Đỗ Cao Trí:
- Chúng tôi hoạt động ngoài Bắc. Không dính dấp gì đến chuyện trong Nam. Một số nhân viên của tôi hiện đang hoạt động ngoài đó, Thiếu tướng lo cho họ. Không một hồ sơ, tài liệu, danh sách nhân viên và máy móc truyền tin liên lạc ngoài Bắc được ông Phan Quang Đông chuyển giao lại cho Tướng Trí. Tất cả đã biến mất nhiều giờ, trước khi căn nhà màu hồng này bị bao vây. Đây là quyết định và hành động của ông Đông để bảo mật và bảo vệ sinh mạng cho nhân viên, những điệp viên đang hoạt động và đang kẹt lại tại miền Bắc.
Các cuộc biểu tình hoan hô “cách mạng”, đả đảo Nhu, Diệm, Cần Lao, Công An, Mật Vụ vẫn tiếp tục tại Huế. Một nguồn tin được tung ra: Một số quý Thầy bị Mật Vụ Nhu, Diệm bắt hiện đang giam tại Chín Hầm.
Trước 1963, ít ai nghe và cũng chẳng ai biết địa danh Chín Hầm. Chín Hầm nằm về phía Tây thành phố Huế, ngay phía sau lăng Vua Khải Định và cạnh dòng tu Thiên An. Đó là một dãy 9 hầm của quân đội Nhật, rồi đến quân đội Pháp dùng để chứa đạn, đúng nghĩa đó là 9 hầm chứa đạn, kho đạn.
Sau khi nguồn tin được tung ra là các Thầy bị giam tại Chín Hầm, đã có người hướng dẫn, hằng ngàn thiện nam, tín nữ, sinh viên, học sinh, các bà tiểu thương chợ Đông Ba ào ạt kéo lên Chín Hầm giải thoát cho quý Thầy.
Màn kịch diễn ra tại Chín Hầm thật thương tâm, khiến người thiệt thà, ngây thơ đứng xem phải rơi lệ. Soạn giả và diễn viên của vở kịch này quá xuất sắc. “Quý Thầy” được các tín đồ đưa từ các hầm giam ra ngoài, có thầy quá đuối sức đi không nổi phải có người dìu đi. Quý Thầy đều mặc áo nâu sồng, đầu cạo láng bóng. Tín đồ nhào vào, nhất là các bà tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, ôm chầm quý Thầy, khóc lóc thảm thiết. Nào ai biết được, tất cả là đồ giả, quý Thầy là đồ giả. Bọn chúng là đám Việt cộng thứ thiệt, thứ cao cấp bị bắt giữ. Trước đó một vài hôm, cơ sở của bọn chúng đã đem áo nâu sồng vào cho bọn chúng mặc, cạo đầu láng bóng, ngồi đợi để được giải thoát.
Mà quý Thầy được giải thoát thật, nhưng sau khi được giải thoát, quý Thầy không về chùa, mà lại lên núi tu hành tại các mật khu, để rồi Mậu Thân 1968, tu hành đắc đạo xuống núi bắn giết đồng bào Huế. Ra lệnh chôn sống hơn 5000 ngàn thường dân trong những mồ chôn tập thể, trong số hơn 5000 ngàn nạn nhân đó, số lượng phật giáo đồ chân chính không phải là nhỏ, rồi đến 1975, bọn này lại bắt bớ tù đày biết bao nhiều người dân Huế.
Màn bi kịch Chín Hầm vừa nói trên, đạo diễn là Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Chánh Trực. Diễn viên là nhân viên do Hoàng Kim Loan và các cơ sở của hắn đã cài vào trong hàng ngũ Phật giáo. Bọn chúng đã hoàn tất nhiệm vụ mà Hà Nội giao phó: giải thoát tất cả các cán bộ cộng sản cao cấp bị lực lượng An ninh của Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa bắt giữ.
Những ngày kế tiếp, dưới áp lực của quý Thầy, Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng cho thành lập Tòa Án Quân sự tại Huế đem Ông Phan Quang Đông ra xử. Theo hồ sơ số 95 ngày 8-5-1964 lưu trữ tại Văn khố BCH/Thừa Thiên Huế, thì người hỏi cung Phan Quang Đông là Trần Văn Cư, Chủ sự phòng Cảnh sát thuộc Nha Cảnh Sát miền Bắc Trung Nguyên Trung Phần và Tư Pháp Cảnh Lại là Nguyễn Văn Mão, làm thư ký.
Như vậy có khác gì chùa và Việt cộng phối hợp hỏi cung trùm Tình báo miền Nam Việt Nam Phan Quang Đông đâu, vì Trần Văn Cư là đệ tử ruột của Thích Đôn Hậu và Nguyễn Văn Mão nguyên là Phái khiển Tình báo Chiến Lược, bị bắt trước đảo chánh 1963. Sau này Trần Văn Cư được phong làm Phó Giám đốc CSQG vùng I .
Với tội danh: Mật Vụ Nhu, Diệm, đàn áp Phật giáo, thủ tiêu, bắt giam và hành hạ dã man, tàn bạo quý Thầy và tín đồ Phật giáo. Với tội danh bị vu cáo này, toà tuyên án tử hình Phan Quang Đông. Và Ông đã bị xử bắn tại sân vận động Tự Do, tức sân Vận Động Bảo Long tại Huế.
Đồng ý khi bước chân vào nghề Tình báo, nghề của một Điệp Viên, sinh nghề tử nghiệp đó là chuyện thường tình khi bị sa vào tay địch. Nhưng đau đớn và nghiệt ngã là địch đã dùng những người Quốc Gia, dùng súng của những người cùng chiến tuyến chống cộng sản, bắn những phát đạn vào thân thể ông, nỗi oan khiên ngút tận trời xanh, chỉ có Ông biết, chiến hữu của Ông biết, Trời biết, Đất biết, Hồn Thiêng Sông Núi biết và..Tổ Quốc Ghi Công.
Những người ngồi xử ông Phan Quang Đông, từ Chánh Án, Chánh Thẩm, Công Tố là những Sĩ Quan, là những viên chức cao cấp hành chánh của Chính Phủ miền Nam Việt Nam. Giờ này họ còn hay đã mất, tại quê nhà hay hải ngoại, có ai hối hận không, khi đem Ông Phan Quang Đông một cấp chỉ huy thượng đẳng của cơ quan Điệp Báo miền Nam hoạt động ngoài Bắc ra xử bắn. Các ông đã quá hèn hạ, sợ mất lon, mất chức, bán rẻ lòng lương thiện tối thiểu, cúi đầu theo lệnh những tên Việt cộng nằm vùng trong Phật giáo, như Đôn Hậu, Trí Quang và sau lưng là Hoàng Kim Loan, là Cục 2 Quân báo và Nha Liên Lạc, tức Cục Tình Báo Chiến Lược của Hà Nội. Rồi đây, lịch sử sẽ phê phán, định tội các ông.
Sau ngày 1-11-1963, hệ thống tình báo hữu hiệu của miền Nam đối đầu với 2 cơ quan Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của Cộng sản Hà Nội hoàn toàn bị sụp đổ. Cơ quan Tình Báo phụ trách miền Bắc của ông Phan Quang Đông và Đoàn Công Tác Đặc Biệt phụ trách an ninh miền Nam của ông Dương Văn Hiếu bị địch dùng bàn tay người quốc gia: “Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng” đánh phá tan tành, kẻ bị bắt tù đày, kẻ bị sa thải. Tất cả đều mang tội danh Mật Vụ của Nhu, Diệm đàn áp Phật giáo.. Thử nhìn lại một vài thành quả công tác của hai cơ quan này, để thấy có phải họ là Mật Vụ đàn áp Phật giáo hay không:
Vụ nhân dân Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền miền Bắc năm 1956, kế hoạch và hành động đều do ông Phan Quang Đông và những điệp viên ông gởi ra miền Bắc thực hiện. Còn nhiều những điệp vụ khác nữa, mà mãi đến nay, tuy thời gian tính cũng đã quá lâu, nhưng vẫn chưa thể tiết lộ.
Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung do Ông Dương Văn Hiếu chỉ huy. Trách nhiệm của cơ quan này là đối đầu và vô hiệu hóa mọi hoạt động của những điệp viên thuộc hai cơ quan tình báo miền Bắc gởi vào Nam : Đó là Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược tức Nha Liên Lạc.
Tổ chức Điệp Báo của Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược của cộng sản rất tinh vi, phương pháp hành động của chúng là: Đơn Tuyến, Chia cách, và Bảo Mật tối đa. Chỉ Huy Trưởng Cục 2 Quân Báo tại Hà Nội là Đại Tá Lê Trọng Nghĩa.
Tại Miền Nam, Bộ chỉ Huy Cục 2 Quân Báo đóng tại vùng núi Cao nguyên Trung phần, thuộc Tỉnh Pleiku và Đại Tá Lê Câu làm Chỉ Huy Trưởng. Trước 1954, Lê Câu với quân hàm Thiếu Tá, chỉ huy mạng lưới Quân Báo các Tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam. Đại Tá Lê Câu bị Đoàn Đặc Nhiệm miền Trung bắt vào năm 1961, khi y rời căn cứ về Sài Gòn, đến nhà Phạm Bá Lương để tiếp xúc và nhận tài liệu mật của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Phạm Bá Lương cung cấp. Phạm Bá Lương là cơ sở nội tuyến của Đại Tá Lê Câu. Phạm Bá Lương làm tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa với chức vụ Công Cán ủy Viên. Bộ trưởng Ngoại Giao thời đó là ông Vũ Văn Mẫu. Sau 1975 Lê Câu giữ chức Vụ Tổng Thanh Tra ngành Công An Việt cộng .
Nhân vật kế tiếp bị Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung bắt là Trần Quang, Thường vụ Tỉnh Đảng Bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng Bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm Trưởng lưới điệp báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.
Nguyễn Vĩnh Nghiệp cán bộ đặc trách Khu ủy Sài Gòn .Tư Hùng, Cán Bộ Đặc Khu Sài Gòn. Toàn bộ là đảng viên cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung.
Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5, gồm các tỉnh Đảng Bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của đảng cộng sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.
Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Saigòn. Mục tiêu kế tiếp của Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng hay Nha Liên Lạc. Chỉ huy trưởng Tổng Cục Tình Báo Chiến lược Việt cộng là Trần Hiệu. Người chỉ huy Cục Tình báo Chiến Lược Việt cộng tại Miền Nam Việt Nam là Trần Quốc Hương tự Trần Ngọc Trí tức Mười Hương. Mười Hương là Khu Ủy Viên là Chính Ủy. Từ miền Bắc hắn vào miền Nam với nhiệm vụ kiểm tra và chỉ đạo mọi công tác của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại miền Nam, đồng thời phân tích và lượng giá tình hình quân sự và chính trị của chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để Trung Ương Đảng tại Hà Nội có kế hoạch đối phó. Mười Hương đã bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1958.
Minh Vân tức Đại Tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình Báo chiến lược Việt cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào năm 1954. Bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958.Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình Báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng Cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp, bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sàigòn y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.
Đại Tá Văn Quang tức Trang Công Doanh. Cán bộ nòng cốt của Cục Tình Báo Chiến lược. Đại Tá Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc Khu Sàigòn - Chợ Lớn cộng sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Sàigòn. Đại Tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
Lê Thanh Đường, phái khiển Tình Báo, thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam . Nghề nghiệp hợp pháp tại Sàigòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sàigòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.Tôn Hoàng, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam. Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959.
Dư Văn Chất, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Saigòn. Chức vụ Trưởng Lưới Tình Báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Saigòn.Sau 1975 Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy Viên Thành Ủy Đảng Bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành Ủy.
Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình Báo chiến lược. Trước 1954 Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo Của Liên Khu Ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958.
Hoàng Hồ, phái khiển Tình Báo. Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Hoàng Hồ là Chủ Nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sàigòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa y là Dân Biểu (!?)
Vũ Ngọc Nhạ, Điệp Viên thuộc Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Bị Đoàn CTĐBMT bắt lần 1 tại Sàigòn. Sau đó bị Trung Tá Nguyễn Mâu, Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và toán Đặc Biệt của ông bắt giữ và triệt tiêu Cụm A 22 Cục Tình Báo Chiến Lược, khi y xâm nhập tiếp cận với Phủ Tổng Thống VNCH.
Trước đó, hầu hết những cán bộ cộng sản thuộc Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản, bị Đoàn CTĐBMT bắt giữ, đều được đưa ra Huế giam giữ tại lao Thừa Phủ ( Mặt sau tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên và thị Xã Huế) hoặc Chín Hầm. Những ngày đầu của cuộc đảo chánh 1-11-1963, Cục 2 Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản qua Thầy tu Thích Đôn Hậu, Trí Quang, và Phái Khiển Tình Báo, điệp viên Hoàng Kim Loan, đã giải thoát một số bọn chúng tại Chín Hầm. Số còn lại cách đó không lâu, đã được Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng đưa vào SàiGòn, và Chủ Tịch Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng là Trung Tướng Dương Văn Minh, và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát đã trân trọng trả tự do cho bọn côïng sản này, vào đầu năm 1964. Để rồi bọn chúng tái hoạt động mạnh hơn, tinh vi hơn, tung hoành ngang dọc, tổ chức và gài người cùng khắp mọi đoàn thể chính trị, đảng phái, cơ quan dân sự hành chánh cũng như trong quân đội mà không một ai dám đụng đến bọn chúng, kể cả các Tướng Lãnh trong Hội Đồng Quân nhân Cách Mạng, đến các chỉ huy trưởng mọi cơ quan Tình Báo Dân Sự, cũng như Tình Báo Quân đội, và ngay đến các vị tướng Tư Lệnh các Quân khu, có gan to bằng trời cũng không dám đụng đến bọn cán bộ cộng sản thứ thiệt và đám Việt cộng đội lốt thầy tu này, vì đụng đến bọn chúng là bị chụp mũ : Tàn dư chế độ Nhu, Diệm, dư đảng Cần Lao, đàn áp quý Thầy và Phật giáo đồ, lập tức bị biểu tình đả đảo và bay chức ngay.
Sau 1-11-1963, Thích Trí Quang là Đấng Quốc Phụ của miền Nam Việt Nam, không một Chính Phủ nào tại Trung Ương Sàigòn có thể đứng vững quá 3 tháng nếu đi lệch hướng chỉ đạo của ông ta. Tướng lãnh trong Hội Đồng Cách Mạng bắt đầu thanh toán nhau tranh dành ngôi báu. Tướng lãnh lợi dụng Trí Quang để có được hậu thuẫn quần chúng Phật giáo, Trí Quang dùng Tướng lãnh cho mưu đồ và tham vọng của hắn.
Các cuộc biểu tình lên đường, xuống đường chống chính phủ diễn ra hằng ngày tại Saigòn, nay đảo chánh, mai chỉnh lý, cứ như vậy tiếp tục cho đến cuối năm 1965. Mỗi lần nghe nhạc hùng trên đài phát thanh Sàigon, Huế là biết ngay có đảo chánh.Đặc biệt nhất là cuộc chỉnh lý của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm do bàn tay của Cục Tình Báo Chiến Lược cộng sản đạo diễn.
Ngày19 tháng 2 năm 1965 tại Saigòn, Tướng Lâm Văn Phát đảo chánh, nhưng chủ soái của cuộc đảo chánh này là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (Đại Tá Quân lực VNCH, cựu Tỉnh Trưởng) và Nguyễn Bảo Kiếm. Nếu cuộc đảo chánh thành công thì Đại Tá Phạm Ngọc Thảo sẽ là Thủ Tướng, Nguyễn Bảo Kiếm sẽ là Tổng Trưởng Nội Vụ Chính Phủ Việt Nam Côïng Hòa.
Cũng may, nhờ mấy anh Cố Vấn mắt xanh mũi lõ ngăn trở ngầm, cuộc đảo chánh của Tướng Lâm văn Phát không thành công như Trung Ương Đảng cộng sản Hà Nội mong đợi, và sau đó 1967(?) Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị Lực lượng An Ninh bắn hạ tại Biên Hòa.
Sau 1975, Phạm Ngọc Thảo được trung ương đảng Côïng sản phong Liệt Sĩ, Nguyễn Bảo Kiếm cũng lộ nguyên hình, hai tên này là điệp viên của Tổng Cục 2 Tình Báo Chiến Lược Cộng sản.
Tại Huế trong thời gian này, tình hình cũng rối loạn không khác gì Saigòn. Hằng loạt các cuộc đình công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình chống chính phủ. Mọi sinh hoạt của dân chúng hoàn toàn bị tê liệt. Tình hình an ninh tại Thừa Thiên- Huế suy sụp trầm trọng. Lực lượng quân sự Việt cộng bắt đầu mở những trận đánh thăm dò ngay vòng đai an ninh gần của thành phố.
Tháng 2-1965 Công Trường 5 Đặc Công của Đại tá Việt cộng Thân Trọng Một, tung 2 tiểu đoàn đặc công K 1, K 2, tấn công quận lỵ Nam Hòa phía tây thành phố Huế. Quận lỵ Nam Hòa cách thành phố chưa đầy 10Km. Cuộc tấn công của Việt cộng bị lực lượng quân sự tại Chi Khu Nam Hòa phản công và đẩy lui.
Trong khi đó Chỉ huy hai cơ quan chịu trách nhiệm an ninh tại thành Phố Huế là Ty Công An Thừa Thiên và Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là hai nhân vật được Trí Quang và Đôn Hậu đề cử. Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thị Xã Huế là Nguyễn văn Cán thường được gọi là Quận Cán vì đương sự có bằng Cử Nhân Luật, ngạch Quận Trưởng (Commissioner), đương sự có anh ruột là cán bộ cộng sản “quân hàm” Đại Tá. Quận Cán là Cơ sở của Cục Tình Báo Chiến Lược Việt cộng, cán bộ điều khiển của y là Hoàng Kim Loan.
Trưởng Ty Công An tỉnh Thừa Thiên là Lê Văn Phú. Phú là em rể của Trần văn Cư, đệ tử thân tín của Thích Đôn Hậu. (Sẽ đề cập đến Quận Cán tên điệp viên Côïng Sản này ở phần sau). Thời gian này hai Ty Cảnh Sát chưa sát nhập, một bên là Ty Công An Thừa Thiên, một bên là Ty Cảnh Sát thị Xã Huế.
Đến tháng 6-1966, khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Cảnh Sát, ông cho sát nhập 2 thành một, gọi là Bộ chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, để tiện điều hành và thống nhất chỉ huy.
Về Quân sự, hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên- Huế gọi là Khu 11 Chiến thuật, dưới quyền của Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn I. Ông đúng nghĩa là một ông Tướng của chiến trận, không phải là một nhà chính trị, vì thế dễ dàng bị Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu xỏ mũi kéo đi. Chung quanh ông Tướng toàn là người của Trí Quang và Đôn Hậu cài vào. Nhất cử nhất động của ông Tướng đều được các cơ sở của hai tên này báo cáo đầy đủ lên Trung Tâm Quyền Lực Từ Đàm.
Ông Tướng nghĩ rằng lợi dụng được Thích Trí Quang và Đôn Hậu thì có thể dùng lực lượng đông đảo Phật giáo đồ tại Huế và miền Trung, để áp lực với Chính Phủ Trung Ương cho quyền lợi và mưu đồ riêng của ông, thế nhưng ông Tướng đã lầm, lầm to, lầm lớn -
Ông chưa đủ mưu mô thủ đoạn khôn ngoan để lợi dụng Thích Trí Quang, Đôn Hậu và đằng sau là Hoàng Kim Loan, là Cục Tình Báo Chiến Lược Cộng sản. Ngược lại, bọn chúng cho ông vào tròng, lợi dụng ông và dùng Sư Đoàn I BB của Ông làm lực lượng nòng cốt, trong cuộc khởi loạn miền Trung năm 1966, để rồi phải gánh chịu hậu quả, là ông bị rời khỏi quân đội, rời khỏi quê hương, lưu đày ở xứ Cờ Hoa từ 1966 cho đến nay.
Nhắc đến Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, ai cũng biết ông là chuyên viên, là vua đảo chánh. Ngày 11-11-1960 ông đảo chánh Tổng Thống Diệm, thất bại ông chạy sang Cao Miên. Ngày 1-11-1963 Tướng lãnh đảo chánh thành công, ông từ Cao Miên về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I với cấp bậc Trung Tướng. Mỗi khi bất bình chính phủ Trung Ương, ông lên máy bay vào Sài Gòn đảo chánh, vì thế ông Tướng mới có biệt danh là Vua đảo chánh.(còn tiếp)
No comments:
Post a Comment